Atlas soi cổ tử cung: Nguyên tắc và thực hành – Bác sĩ Vũ Tài

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Hình 2: Biểu mô vảy nguyên thủy sau khi bôi Lugol

Bài viết Atlas soi cổ tử cung: Nguyên tắc và thực hành – Tác giả: Bác sĩ Vũ Tài.

I. Hình ảnh soi cổ tử cung bình thường 

1. Biểu mô cổ tử cung bình thường

1.1 Biểu mô vảy nguyên thủy

Biểu mô vảy nguyên thủy là biểu mô bẩm sinh (có mặt ngay khi sinh) của cổ tử cung. Nó mịn và có màu hồng và không thay đổi sau khi bôi axit axetic. Ở cổ tử cung trưởng thành, biểu mô vảy nguyên thủy được nhìn thấy ở ngoại vi và liên tục với biểu mô âm đạo.

Hình 1: Biểu mô vảy nguyên thủy sau khi bôi axit axetic
Hình 1: Biểu mô vảy nguyên thủy sau khi bôi axit axetic

Mũi tên vàng: biểu mô vảy nguyên thủy

Mũi tên xanh lục: Lỗ ngoài

Mũi tên xanh dương: Biểu mô âm đạo

Màu sắc của biểu mô vảy nguyên thủy chuyển sang màu nâu gụ đậm sau khi bôi Lugol, do sự bắt màu iốt của glycogen nội bào ở các lớp bề mặt.

Hình 2: Biểu mô vảy nguyên thủy sau khi bôi Lugol
Hình 2: Biểu mô vảy nguyên thủy sau khi bôi Lugol

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy nguyên thủy

Mũi tên xanh: Lỗ ngoài

Trên biểu mô vảy nguyên thủy, thường thấy các mao mạch phân nhánh bình thường hoặc các mạch máu giống như cái kẹp tóc.

Hình 3: Mạng lưới mạch máu trên biểu mô vảy nguyên thủy
Hình 3: Mạng lưới mạch máu trên biểu mô vảy nguyên thủy

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy nguyên thủy

Mũi tên xanh lục: Lỗ ngoài

Đặc điểm vi thể: Biểu mô vảy nguyên thủy cấu tạo từ biểu mô vảy lát tầng không sừng hóa. Các tế bào của lớp bề mặt phẳng và không có nhân hoặc có nhân đông rất nhỏ. Các tế bào ở lớp bề mặt và trung gian rất giàu glycogen. Các lớp cận đáy và đáy có các tế bào hình tròn, nhân lớn hơn. Màng đáy ngăn cách biểu mô vảy với mô đệm bên dưới.

Hình 4: Hình ảnh vi thể của biểu mô vảy
Hình 4: Hình ảnh vi thể của biểu mô vảy

a: Lớp bề mặt

b: Lớp trung gian

c: Lớp cận đáy

d: Lớp đáy

e: Mô đệm

f: Mạch máu

Lưu ý: Biểu mô không chứa bất kỳ mạch máu nào. Các mạch máu ở trong mô đệm bên dưới biểu mô vảy. Biểu mô vảy trưởng thành bình thường thường dày và che phủ các mạch máu. Có thể nhìn thấy các mạch máu nếu chúng nổi rõ hoặc nếu biểu mô mỏng.

1.2 Biểu mô trụ

Các biểu mô trụ lót ống cổ tử cung. Ở cổ tử cung bình thường, biểu mô trụ chỉ nhìn thấy được ở gần lỗ ngoài. Nó xuất hiện dưới dạng một mảng màu đỏ ở trung tâm cổ tử cung sau khi cổ tử cung được làm sạch bằng nước muối sinh lý.

Hình 5: Biểu mô trụ bình thường
Hình 5: Biểu mô trụ bình thường

Mũi tên vàng: Biểu mô trụ

Mũi tên xanh lam: Biểu mô vảy

Biểu mô trụ trở nên nổi bật sau khi bôi axit axetic và có bề mặt sần, mịn như nhung. Các nhung mao giống như ngón tay nhô vào trong ống cổ tử cung và nhiều nếp gấp dọc (các khe) là các đặc điểm của biểu mô trụ nhưng có thể không phải lúc nào cũng nhìn thấy được.

Hình 6: Biểu mô trụ màu đỏ mịn như nhung với bề mặt sần 
Hình 6: Biểu mô trụ màu đỏ mịn như nhung với bề mặt sần

Mũi tên xanh lục: Biểu mô trụ

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy

Hình 7: Nhung mao của biểu mô trụ
Hình 7: Nhung mao của biểu mô trụ

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy

Mũi tên xanh lục: Nhung mao của biểu mô trụ

Ảnh 8: Nhung mao và khe của biểu mô trụ
Hình 8: Nhung mao và khe của biểu mô trụ

Mũi tên vàng: Khe

Mũi tên xanh lục: Nhung mao

Biểu mô trụ có thể chuyển sang màu trắng tạm thời sau khi bôi axit axetic nhưng sẽ lấy lại màu đỏ trong vòng vài giây. Ranh giới giữa biểu mô vảy và biểu mô trụ trở nên rất rõ ràng sau khi bôi axit axetic. Biểu mô trụ vẫn giữ được màu đỏ sau khi bôi Lugol.

Hình 9: Biểu mô trụ sau khi bôi axit axetic
Hình 9: Biểu mô trụ sau khi bôi axit axetic

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy

Mũi tên xanh lam: Biểu mô trụ 

Đường viền: Ranh giới vảy-trụ

Hình 10: Biểu mô trụ sau khi bôi Lugol
Hình 10: Biểu mô trụ sau khi bôi Lugol

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy

Mũi tên xanh lục: Biểu mô trụ

Trên biểu mô trụ thường thấy các mạch máu phân nhánh bình thường nổi rõ, vì biểu mô mỏng và trong suốt.

Hình 11: Mạch máu nổi rõ trên biểu mô trụ
Hình 11: Mạch máu nổi rõ trên biểu mô trụ

Mũi tên: Mạch máu bình thường

Đặc điểm vi thể: Biểu mô trụ bao gồm một lớp tế bào trụ. Biểu mô trụ lõm vào trong mô đệm cổ tử cung để tạo thành cửa tuyến.

Hình 12: Hình ảnh vi thể của biểu mô trụ
Hình 12: Hình ảnh vi thể của biểu mô trụ
Hình 13: Hình ảnh vi thể của biểu mô trụ 
Hình 13: Hình ảnh vi thể của biểu mô trụ

Mũi tên xanh lục: Biểu mô trụ 

Mũi tên đen: Cửa tuyến

1.3 Ranh giới biểu mô vảy-trụ

Biểu mô vảy và biểu mô trụ gặp nhau tại một đường gọi là ranh giới vảy-trụ (SCJ). Có thể thấy SCJ như là đường nối giữa biểu mô vảy màu hồng và biểu mô trụ màu đỏ sau khi cổ tử cung được làm sạch bằng nước muối sinh lý. SCJ được thấy rõ hơn nhiều sau khi bôi axit axetic dưới dạng một đường trắng rõ ràng. Ranh giới giữa biểu mô vảy màu nâu và biểu mô trụ màu đỏ cũng khá rõ ràng sau khi bôi Lugol.

Hình 14: SCJ sau khi làm sạch cổ tử cung bằng nước muối sinh lý
Hình 14: SCJ sau khi làm sạch cổ tử cung bằng nước muối sinh lý

Đường viền: SCJ

Hình 15: SCJ sau khi bôi axit axetic 
Hình 15: SCJ sau khi bôi axit axetic

Đường viền: SCJ

Hình 16: SCJ sau khi bôi Lugol
Hình 16: SCJ sau khi bôi Lugol

Đường viền: SCJ

Bác sĩ soi cổ tử cung phải cố gắng quan sát toàn bộ SCJ. SCJ được xác định dễ dàng nếu nó nằm ở lỗ ngoài hoặc trên cổ tử cung. Cổ tử cung phải được mở rộng bằng mỏ vịt để quan sát SCJ kéo dài vào bên trong cổ tử cung.

Hình 17: SCJ ở lỗ ngoài cổ tử cung 
Hình 17: SCJ ở lỗ ngoài cổ tử cung

Đường viền: SCJ

Hình 18: SCJ trên cổ ngoài tử cung
Hình 18: SCJ trên cổ ngoài tử cung

Đường viền: SCJ

Không xác định chính xác SCJ là lỗi phổ biến nhất trong soi cổ tử cung. Tầm quan trọng của phần soi cổ tử cung này có thể không được nhấn mạnh đúng mức. Để xác định chính xác SCJ, nên dựa vào điểm thấp nhất của biểu mô trụ.

Hình 19:  SCJ bên trong ống cổ tử cung (có thể nhìn thấy một phần ở môi sau)
Hình 19:  SCJ bên trong ống cổ tử cung (có thể nhìn thấy một phần ở môi sau)
Hình 20: SCJ bên trong ống cổ tử cung (được hiển thị bằng mỏ vịt ống cổ tử cung)
Hình 20: SCJ bên trong ống cổ tử cung (được hiển thị bằng mỏ vịt ống cổ tử cung)

Đường viền: SCJ

Đặc điểm vi thể: Ranh giới giữa biểu mô vảy nhiều lớp và biểu mô trụ đơn lớp có thể nhìn thấy như một bước giảm độ cao đột ngột. SCJ được nhìn thấy rõ ràng khi soi cổ tử cung vì sự khác biệt về chiều cao giữa hai loại biểu mô.

Hình 21: Hình ảnh SCJ
Hình 21: Hình ảnh SCJ

Mũi tên màu đen: Biểu mô trụ

Mũi tên xanh lục: Biểu mô vảy

Mũi tên xanh lam: Ranh giới vảy-trụ Mũi tên vàng: Mô đệm

2. Lộ tuyến

Cổ tử cung tăng kích thước do ảnh hưởng của estrogen (khi bắt đầu hành kinh và trong mỗi lần mang thai). Biểu mô trụ mở rộng ra cổ ngoài tử cung với các mức độ khác nhau. Sự hiện diện của biểu mô trụ trên cổ ngoài tử cung được gọi là lộ tuyến. Lộ tuyến là một tình trạng sinh lý bình thường. SCJ di chuyển ra ngoài về phía ngoại vi của cổ tử cung và dễ dàng nhìn thấy hơn. Khi soi cổ tử cung, lộ tuyến xuất hiện dưới dạng một mảng đỏ ở trung tâm cổ tử cung sau khi cổ tử cung được làm sạch bằng nước muối sinh lý.

Hình 22: Lộ tuyến sau khi làm sạch cổ tử cung bằng nước muối sinh lý
Hình 22: Lộ tuyến sau khi làm sạch cổ tử cung bằng nước muối sinh lý

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy

Mũi tên xanh: Biểu mô trụ

Sau khi bôi axit axetic, thấy rõ các đặc điểm điển hình của biểu mô trụ. Biểu mô trụ có thể có mảng trắng sau khi bôi axit axetic. Vị trí của SCJ trên cổ tử cung phụ thuộc vào kích thước của lộ tuyến. SCJ của một lộ tuyến phát triển đầy đủ được gọi là SCJ “nguyên thủy”. SCJ “mới” sẽ được hình thành sau đó bởi một quá trình gọi là chuyển sản ( thảo luận sau ).   

Hình 23: Lộ tuyến sau khi bôi axit axetic
Hình 23: Lộ tuyến sau khi bôi axit axetic

Mũi tên vàng: Biểu mô vảy

Mũi tên hồng: Ranh giới vảy-trụ

Mũi tên xanh lục: Biểu mô trụ

Mũi tên xanh lam: Mảng trắng trên biểu mô trụ

Biểu mô trụ của lộ tuyến vẫn có màu đỏ ngay cả sau khi bôi Lugol. Lau biểu mô trụ bằng tăm bông có thể gây chảy máu, thường thấy ở cổ tử cung bị viêm.

Hình 24: Lộ tuyến sau khi bôi Lugol
Hình 24: Lộ tuyến sau khi bôi Lugol
Hình 25: Chảy máu từ biểu mô trụ
Hình 25: Chảy máu từ biểu mô trụ

Một mảng màu đỏ trên cổ tử cung được nhìn thấy trước khi bôi axit axetic có thể là do vết trợt (thảo luận sau), chuyển sản hoặc thậm chí là tổn thương tiền ung thư. SCJ chỉ nên được xác định sau khi bôi axit axetic, khi các đặc điểm của biểu mô trụ trở nên rõ ràng.

Hình 26: Mảng màu đỏ bên trong ống cổ tử cung trước khi bôi axit axetic
Hình 26: Mảng màu đỏ bên trong ống cổ tử cung trước khi bôi axit axetic
Hình 27: Mảng đỏ chuyển sang màu trắng dày sau khi bôi axit axetic, gợi ý một tổn thương tiền ung thư.
Hình 27: Mảng đỏ chuyển sang màu trắng dày sau khi bôi axit axetic, gợi ý một tổn thương tiền ung thư.

SCJ nằm bên trong ống cổ tử cung (mô bệnh học: HSIL-CIN 2)

3. Chuyển sản vảy

Khi mới sinh, có một ranh giới đột ngột giữa biểu mô vảy của cổ ngoài (biểu mô vảy nguyên thủy) và biểu mô trụ của cổ trong. Ở tuổi dậy thì, SCJ nằm ở lỗ ngoài. Thông qua việc tiếp xúc với estrogen (khi mới sinh, tuổi dậy thì và trong suốt cuộc đời sinh sản), các cơ quan sinh dục nữ bao gồm cả cổ tử cung tăng kích thước và kết quả là ống cổ tử cung bị lộn ra ngoài làm cho biểu mô trụ của cổ trong tiếp xúc với âm đạo và hiện tượng này được gọi là „lộ tuyến‟. Sự lộn ra ngoài này làm biểu mô trụ của cổ trong tử cung tiếp xúc với pH âm đạo có tính axit. Tính axit này, cùng với các yếu tố khác, kích thích sự thay thế biểu mô trụ bằng biểu mô vảy. Quá trình này được gọi là chuyển sản. Chuyển sản dẫn đến hình thành một SCJ mới. Vùng nằm giữa SCJ nguyên thủy và SCJ mới được gọi là vùng chuyển tiếp. Những thay đổi chuyển sản thường bắt đầu từ ngoại vi của lộ tuyến và lan về phía lỗ ngoài cổ tử cung. Những thay đổi cũng có thể xảy ra ở các mảng riêng biệt trên biểu mô trụ. Các tế bào vảy mới có nguồn gốc từ các tế bào “dự trữ” toàn năng không hoạt động bên dưới các tế bào trụ.

Quá trình chuyển sản bắt đầu bằng sự hợp nhất các đầu nhung mao, sau đó biểu mô trụ được che phủ bằng biểu mô mỏng chưa trưởng thành trong suốt. Biểu mô chưa trưởng thành trưởng thành, với sự tăng sinh và biệt hóa dần dần của các tế bào vảy. Biểu mô vảy trưởng thành được hình thành do chuyển sản đôi khi không thể phân biệt được với biểu mô vảy nguyên thủy.

Hình 28: Thay đổi chuyển sản (lưu ý sự hợp nhất của các nhung mao, với các đầu có màu trắng nhạt sau khi bôi axit acetic)
Hình 28: Thay đổi chuyển sản (lưu ý sự hợp nhất của các nhung mao, với các đầu có màu trắng nhạt sau khi bôi axit acetic)

Mũi tên: nhung mao hợp nhất   

Hình 29: Thay đổi chuyển sản (lưu ý màng mỏng trong suốt) che phủ biểu mô trụ từ ngoại vi Biểu mô mỏng trong suốt
Hình 29: Thay đổi chuyển sản (lưu ý màng mỏng trong suốt) che phủ biểu mô trụ từ ngoại vi Biểu mô mỏng trong suốt
Hình 30: Thay đổi chuyển sản (biểu mô vảy dần dần thay thế biểu mô trụ) 
Hình 30: Thay đổi chuyển sản (biểu mô vảy dần dần thay thế biểu mô trụ)

Mũi tên: Biểu mô chuyển sản hình cái lưỡi

Khi quá trình chuyển sản tiến triển, SCJ “mới” được hình thành, dần dần di chuyển vào trong về phía lỗ ngoài.

Hình 31: Biểu mô chuyển sản đã thay thế một phần biểu mô trụ
Hình 31: Biểu mô chuyển sản đã thay thế một phần biểu mô trụ

Đường màu vàng: SCJ nguyên thủy (không nhìn thấy nữa) 

Đường màu xanh: SCJ mới

Mũi tên màu vàng: Hướng thay đổi chuyển sản

Hình 32: Cổ tử cung trưởng thành sau khi hoàn thành quá trình chuyển sản
Hình 32: Cổ tử cung trưởng thành sau khi hoàn thành quá trình chuyển sản

Đường màu xanh lam: SCJ mới

Đường màu vàng: Có thể là SCJ nguyên thủy (không nhìn thấy nữa)

Biểu mô chuyển sản có thể có màu trắng nhạt sau khi bôi axit acetic và sự hấp thu iốt thường có dạng loang lổ

Hình 33: Các mảng trắng mỏng sau khi bôi axit acetic trên biểu mô chuyển sản 
Hình 33: Các mảng trắng mỏng sau khi bôi axit acetic trên biểu mô chuyển sản

Mũi tên vàng: Vùng trắng sau khi bôi axit acetic

Đường viền xanh lam: SCJ mới

Đường viền vàng: SCJ nguyên thủy

Hình 34: Biểu mô chuyển sản bắt màu loang lổ sau khi bôi Lugol
Hình 34: Biểu mô chuyển sản bắt màu loang lổ sau khi bôi Lugol

Mũi tên: Hấp thu iốt một phần

SCJ nguyên thủy ở giới hạn ngoài của vùng chuyển tiếp thường không dễ dàng nhìn thấy bằng máy soi cổ tử cung. Nó được định nghĩa là biểu mô vảy trưởng thành không có biểu mô trụ bên trong hoặc bên dưới nó. Nó đôi khi trùng với mép hấp thu iốt. Thuật ngữ “SCJ” trong quá trình soi cổ tử cung luôn biểu thị SCJ mới trừ khi có các đặc điểm khác.

Đặc điểm khi soi cổ tử cung

Một số đặc điểm giúp xác định biểu mô đang trải qua quá trình chuyển sản vảy khi soi cổ tử cung.

Biểu mô vảy nhô về phía lỗ ngoài như cái lưỡi (sự mở rộng hướng tâm) biểu thị rằng quá trình chuyển sản vẫn đang diễn ra. Phần nhô ra giống như cái lưỡi này có thể có màu trắng nhạt sau khi bôi axit axetic.

Hình 35: Sự mở rộng hướng tâm của biểu mô chuyển sản
Hình 35: Sự mở rộng hướng tâm của biểu mô chuyển sản

Đường viền: SCJ

Mũi tên: Biểu mô trắng mỏng sau khi bôi axit acetic nhô ra giống như cái lưỡi

Khi biểu mô chuyển sản tiến triển về phía lỗ ngoài, nó có thể che phủ các cửa tuyến nguyên thủy có trong biểu mô trụ hoặc để lại chúng. Nếu để lại các cửa tuyến, các cửa tuyến có thể nhìn thấy dưới dạng các chấm đen. Đôi khi những cửa tuyến này có viền trắng mỏng sau khi bôi axit axetic.

Hình 36: Cửa tuyến
Hình 36: Cửa tuyến

Mũi tên: Cửa tuyến

Nang Naboth là nang tồn dư được hình thành do sự bít tắc các cửa tuyến bởi biểu mô chuyển sản. Nang Naboth trông giống như cái mụn nhọt hoặc mụn nước trên cổ tử cung, với các mao mạch mạch máu nhỏ trải dài trên chúng.

Hình 37: Nang Naboth
Hình 37: Nang Naboth

Mũi tên: Nang Naboth

Hình 38: Nang Naboth với các mao mạch máu nhỏ bên trên
Hình 38: Nang Naboth với các mao mạch máu nhỏ bên trên

Mũi tên: Nang Naboth

Khi quá trình chuyển sản tiến triển, các mảng biểu mô trụ nhỏ có thể vẫn chưa được che phủ. Các vùng bị bỏ qua xuất hiện dưới dạng “đảo” biểu mô trụ trên biểu mô chuyển sản.

Hình 39: Đảo biểu mô trụ
Hình 39: Đảo biểu mô trụ

Mũi tên vàng: Cửa tuyến

Mũi tên xanh lam: Đảo biểu mô trụ

Các mạch máu bình thường của mô đệm cổ tử cung có thể nhìn thấy được qua lớp biểu mô chuyển sản mỏng. Các mạch máu có dạng phân nhánh bình thường, không giống như các mạch máu bất thường, không đều được thấy trên các tổn thương xâm lấn.

Hình 40: Mạch máu bình thường trên biểu mô chuyển sản
Hình 40: Mạch máu bình thường trên biểu mô chuyển sản

Mũi tên: Mạch máu bình thường

Các mao mạch mô đệm có các nhánh nhô về phía bề mặt biểu mô theo chiều dọc. Đầu của các mao mạch này có thể được nhìn thấy qua lớp biểu mô chuyển sản mỏng còn được gọi là chấm đáy mịn hoặc chấm nhỏ màu đỏ.

Hình 41:  Chấm đáy mịn trên biểu mô chuyển sản
Hình 41:  Chấm đáy mịn trên biểu mô chuyển sản

Mũi tên: Chấm đáy mịn

Đôi khi các mạch máu có thể nhìn thấy dưới dạng một mạng lưới các mao mạch mịn có đường kính đồng đều trên bề mặt. Chúng trông giống như những viên gạch lát trên sàn nhà. Dạng lát đá (khảm) của các mạch máu nhìn thấy trong biểu mô chuyển sản được gọi là khảm mịn vì sự phân bố đồng đều của các mao mạch mịn. Chúng được thấy rõ hơn trên nền biểu mô trắng sau bôi axit acetic.

Hình 42: Gạch lát trên sàn nhà
Hình 42: Gạch lát trên sàn nhà
Hình 43: Khảm mịn trước khi bôi axit axetic (chỉ nhìn thấy môi trước cổ tử cung)
Hình 43: Khảm mịn trước khi bôi axit axetic (chỉ nhìn thấy môi trước cổ tử cung)

Mũi tên: Khảm mịn

Hình 44: Khảm mịn sau khi bôi axit axetic
Hình 44: Khảm mịn sau khi bôi axit axetic

Mũi tên: Khảm mịn

Biểu mô chuyển sản có thể chuyển sang màu trắng sau khi bôi axit axetic ( acetowhite ). Vùng trắng thường mỏng, dạng mảng hoặc trong suốt. Mép mảng trắng thường không rõ ràng, không đều hoặc “mịn”.

Hình 45: Các mảng trắng mỏng sau khi bôi axit acetic do chuyển sản, có ranh giới không rõ ràng
Hình 45: Các mảng trắng mỏng sau khi bôi axit acetic do chuyển sản, có ranh giới không rõ ràng

Mũi tên vàng: Vùng trắng sau khi bôi axit acetic

Mũi tên xanh lam: Mạch máu bình thường

Sự hấp thu iốt của Lugol trong biểu mô chuyển sản phụ thuộc vào mức độ trưởng thành. Trong biểu mô chuyển sản thường có sự hấp thu iốt một phần hoặc dạng mảng .

Hình 46: Sự hấp thu iốt dạng mảng trên biểu mô chuyển sản
Hình 46: Sự hấp thu iốt dạng mảng trên biểu mô chuyển sản

Mũi tên: Âm tính với iốt

Với tuổi cao, toàn bộ biểu mô chuyển sản (còn gọi là chuyển sản chưa trưởng thành) chuyển thành biểu mô vảy trưởng thành, khi đó có thể không phân biệt được biểu mô vảy nguyên thủy và biểu mô vảy chuyển sản. Không có đặc điểm nào của chuyển sản sẽ được nhìn thấy trên biểu mô vảy trưởng thành.

Hình 47: Biểu mô vảy trưởng thành, không có bất kỳ đặc điểm nào của chuyển sản 
Hình 47: Biểu mô vảy trưởng thành, không có bất kỳ đặc điểm nào của chuyển sản

Đường viền: Ranh giới trụ-vảy

Mũi tên: Biểu mô vảy trưởng thành

Hình ảnh vi thể: Biểu mô chuyển sản có thể nhìn thấy trên kính hiển vi là vùng giữa biểu mô trụ bình thường ở gần và biểu mô vảy nguyên thủy ở xa. Biểu mô chưa trưởng thành có nhiều lớp tế bào hình khối với nhân tương đối lớn, giống tế bào đáy và tế bào cận đáy của biểu mô vảy. Có thể nhìn thấy cửa tuyến và nang Naboth. Biểu mô chuyển sản sau khi trưởng thành hoàn toàn không thể phân biệt với biểu mô vảy nguyên thủy bằng kính hiển vi.

Hình 48: Biểu mô chuyển sản che phủ các cửa tuyến của biểu mô trụ
Hình 48: Biểu mô chuyển sản che phủ các cửa tuyến của biểu mô trụ
Hình 49: Biểu mô chuyển sản
Hình 49: Biểu mô chuyển sản

Mũi tên vàng: Biểu mô chuyển sản Mũi tên xanh lam: Nang Naboth Mũi tên xanh lục: Cửa tuyến

4. Vùng chuyển tiếp

Vùng cổ tử cung được bao phủ bởi biểu mô chuyển sản là vùng chuyển tiếp. Bờ trong (gần) của vùng chuyển tiếp là SCJ và bờ ngoài (xa) là ranh giới giữa biểu mô vảy nguyên thủy và chuyển sản. Bờ gần của SCJ là một thực thể có ranh giới rõ và dễ dàng xác định. Bờ xa không thể được xác định dễ dàng như vậy. Không có đường xác định để phân định ranh giới giữa biểu mô vảy nguyên thủy và chuyển sản. Bờ ngoài của vùng chuyển tiếp có thể được xác định gần đúng dựa trên việc phát hiện cửa tuyến hoặc nang naboth cách xa SCJ nhất. Đôi khi nó tương ứng với ranh giới giữa sự hấp thụ iốt màu vàng hoặc dạng mảng và màu nâu gụ sẫm.

Để xác định bờ ngoài của vùng chuyển tiếp, hãy tìm cửa tuyến (hoặc nang naboth) nằm cách xa SCJ nhất. Coi điểm đó là điểm xa nhất của vùng chuyển tiếp, vẽ một vòng tròn tưởng tượng xung quanh. Vòng tròn này là bờ ngoài của vùng chuyển tiếp (còn được gọi là SCJ “nguyên thủy”).

Hình 50: Xác định bờ trong và bờ ngoài của vùng chuyển tiếp
Hình 50: Xác định bờ trong và bờ ngoài của vùng chuyển tiếp

Mũi tên: Cửa tuyến xa nhất

Đường viền màu xanh lam: SCJ (bờ trong của vùng chuyển tiếp) Đường viền màu xanh lục: Bờ ngoài của vùng chuyển tiếp

Hình 51: Xác định bờ gần và xa của vùng chuyển tiếp sau khi bôi Lugol 
Hình 51: Xác định bờ gần và xa của vùng chuyển tiếp sau khi bôi Lugol

Đường viền màu xanh lam: SCJ

Đường viền màu xanh lục: Vùng chuyển tiếp

Vùng chuyển tiếp có thể có bất kỳ đặc điểm nào của chuyển sản: cửa tuyến, nang Naboth, đảo biểu mô trụ, khảm hoặc chấm đáy mịn, và biểu mô trắng sau bôi axit acetic.

Hình 52: Vùng chuyển tiếp cho thấy các đặc điểm chuyển sản
Hình 52: Vùng chuyển tiếp cho thấy các đặc điểm chuyển sản

Đường viền màu xanh lam: SCJ

Mũi tên màu xanh lam: Biểu mô trắng dạng mảng sau bôi axit acetic

Mũi tên màu xanh lục: Đảo biểu mô trụ

Mũi tên màu vàng: Cửa tuyến

Biểu mô chuyển sản trưởng thành thường có biểu mô trắng sau bôi axit acetic và thường khó phân biệt với các tổn thương tiền ác tính mức độ thấp.

Các mảng trắng sau bôi axit acetic do chuyển sản thường hướng tâm (hướng về phía lỗ ngoài) nhưng đôi khi có thể ly tâm (lan ra xa lỗ ngoài). Mép của vùng trắng chuyển sản luôn rất không đều và “mịn”. Khảm mịn thường gặp trong chuyển sản.

Hình 53: Mảng biểu mô trắng sau bôi axit acetic (hướng tâm) trong vùng chuyển tiếp (mô bệnh học: chuyển sản)
Hình 53: Mảng biểu mô trắng sau bôi axit acetic (hướng tâm) trong vùng chuyển tiếp (mô bệnh học: chuyển sản)

Mũi tên: Vùng biểu mô trắng sau bôi axit acetic

Hình 54: Vùng biểu mô trắng sau bôi axit acetic ly tâm (mô bệnh học: bình thường)
Hình 54: Vùng biểu mô trắng sau bôi axit acetic ly tâm (mô bệnh học: bình thường)

Mũi tên: Khảm mịn

Hình 55: Vùng biểu mô trắng sau bôi axit acetic ly tâm (mô bệnh học: bình thường)
Hình 55: Vùng biểu mô trắng sau bôi axit acetic ly tâm (mô bệnh học: bình thường)

Mũi tên: Khảm mịn

Trong biểu mô vảy trưởng thành, không nhìn thấy đặc điểm nào của chuyển sản và không xác định được bờ ngoài của vùng chuyển tiếp.

Hình 56: Vùng chuyển tiếp ở cổ tử cung trưởng thành
Hình 56: Vùng chuyển tiếp ở cổ tử cung trưởng thành

Mũi tên vàng: nang Naboth

Mũi tên xanh lục: Vùng chuyển tiếp nhợt màu

Vùng chuyển tiếp là vùng quan trọng nhất của cổ tử cung được đánh giá trong quá trình soi cổ tử cung. Nhiễm vi rút gây u nhú ở người (HPV) có thể gây ra sự biến đổi ác tính của các tế bào trên khu vực này. Kết quả là, tân sinh cổ tử cung bắt đầu ở vùng chuyển tiếp. Đánh giá đầy đủ vùng này là vô cùng cần thiết để xác định các tổn thương tân sinh. Xác định ranh giới vùng chuyển tiếp cũng rất quan trọng để điều trị các tổn thương tiền ung thư.

Hình 57: Tổn thương tiền ung thư trên vùng chuyển tiếp phát sinh từ SCJ (mô bệnh học: HSIL- CIN2)
Hình 57: Tổn thương tiền ung thư trên vùng chuyển tiếp phát sinh từ SCJ (mô bệnh học: HSIL- CIN2)

Mũi tên: Vùng biểu mô trắng sau bôi axit acetic

Giới hạn trên (bờ gần) của vùng chuyển tiếp (SCJ) là đặc điểm quan trọng nhất để xác định. Giới hạn dưới (bờ xa) được xác định bởi bờ ngoài của tổn thương, nếu có, hoặc chuyển sản (nơi tổn thương hoặc biểu mô chuyển sản gặp biểu mô vảy trưởng thành). Vùng chuyển tiếp hoạt động là nơi quá trình chuyển sản đang diễn ra hoặc nơi tân sinh trong biểu mô cổ tử cung (CIN) đã phát triển.

Các loại vùng chuyển tiếp

Tùy thuộc vào vị trí và khả năng quan sát thấy SCJ, vùng chuyển tiếp (TZ) được phân thành loại 1, loại 2 hoặc loại 3:

TZ loại 1: SCJ có thể nhìn thấy toàn bộ và nằm hoàn toàn trên cổ ngoài tử cung.

Hình 58: Vùng chuyển tiếp loại 1
Hình 58: Vùng chuyển tiếp loại 1

Đường viền màu xanh lam: SCJ

Đường viền màu vàng: Bờ xa của TZ

Mũi tên: Cửa tuyến xa nhất

TZ loại 2: SCJ có thể nhìn thấy toàn bộ (có hoặc không có mỏ vịt trong ống cổ tử cung) và nằm hoàn toàn hoặc một phần trong ống cổ tử cung.

Hình 59: Vùng chuyển tiếp loại 2 (SCJ chỉ nhìn thấy một phần)
Hình 59: Vùng chuyển tiếp loại 2 (SCJ chỉ nhìn thấy một phần)
Hình 60: Vùng chuyển tiếp loại 2 (SCJ bên trong ống cổ. Lưu ý tổn thương ở môi trước, có thể nhìn thấy sau khi đặt mỏ vịt trong ống cổ)
Hình 60: Vùng chuyển tiếp loại 2 (SCJ bên trong ống cổ. Lưu ý tổn thương ở môi trước, có thể nhìn thấy sau khi đặt mỏ vịt trong ống cổ)

TZ loại 3: SCJ nằm trong ống cổ tử cung và chỉ có thể nhìn thấy một phần hoặc hoàn toàn không nhìn thấy, ngay cả khi sử dụng mỏ vịt trong cổ ống tử cung.

Hình 61: Vùng chuyển tiếp loại 3 (cổ tử cung bị teo; SCJ không nhìn thấy)
Hình 61: Vùng chuyển tiếp loại 3 (cổ tử cung bị teo; SCJ không nhìn thấy)
Hình 62: Vùng chuyển tiếp loại 3 (mỏ vịt ống cổ tử cung được sử dụng để mở ống cổ tử cung)
Hình 62: Vùng chuyển tiếp loại 3 (mỏ vịt ống cổ tử cung được sử dụng để mở ống cổ tử cung)
Hình 63: Vùng chuyển tiếp loại 3 (ngay cả sau đó, SCJ không được thấy toàn bộ)
Hình 63: Vùng chuyển tiếp loại 3 (ngay cả sau đó, SCJ không được thấy toàn bộ)

==>>> Xem thêm bài viết: Các kỹ thuật Doppler phổ và hình ảnh tim thai trong Doppler phổ 

Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here