Hướng dẫn các kỹ thuật xử lý mỡ và ghép mỡ ở vùng mặt

Xuất bản: UTC +7

Cập nhật lần cuối: UTC +7

Tác giả: Jose Maria Serra-Renom

Biên dịch: Thạc sĩ – Bác sĩ Đinh Công Phúc

nhathuocngocanh.com – Bài viết Hướng dẫn các kỹ thuật xử lý mỡ và ghép mỡ ở vùng mặt được trích từ chương 5 sách Kỹ thuật ghép mỡ ở vùng mặt. Căng da mặt đường mổ nhỏ.

Tùy thuộc vào yêu cầu của mảnh ghép mỡ, có một ít thay đổi là cần thiết trong quá trình chuẩn bị mỡ, xử lý và tiêm mỡ. Điều này rất đúng ở vùng mặt, vùng mà sử dụng nhiều các kích cỡ khác nhau để ghép mỡ và sự kết hợp giữa tiêm sâu với ống cannula và tiêm trên bề mặt nông bằng kim đã giúp cải thiện kết quả không chỉ trong việc điều chỉnh việc giảm thể tích mà còn trong trường hợp tái tạo cấu trúc rất tốt.

Dưới đây chúng tôi sẽ cho thấy từng bước về việc chuẩn bị từng mảnh ghép mỡ khác nhau.

Lựa chọn vị trí để lấy mỡ

Khi chúng tôi cần mỡ để ghép, chúng tôi có thể cân nhắc các vị trí lấy mỡ khác nhau và lựa chọn phù hợp nhất cho sự mong muốn của bệnh nhân.

Điều rất quan trọng là không tạo ra sự bất thường ở các vùng lấy mỡ; phải đạt được kết quả thẩm mỹ tốt ở vùng cần ghép mỡ. Trước tiên, những vùng thường được sử dụng phổ biến nhất để lấy mỡ ghép cho vùng mặt của chúng tôi là bụng, mặt trong đùi và bên trong đầu gối và sau đó là sườn, hông, và nếu cần thiết là mặt sau của đùi cũng có thể dùng (Hình 6.1).

Bụng

Phần bụng dưới rốn thường là nơi hay được sử dụng để lấy mỡ nhất. Ở vùng này, nhiều bệnh nhân có đủ lượng mô mỡ để ghép; tuy nhiên, một số điểm cần lưu ý. Điều thực tế đầu tiên là mỡ ở trên và ở dưới lớp fascia Scarpa rất khác nhau. Thứ hai là dễ dàng gây nên bất thường ở da; chúng ta không thể thực hiện ghép mỡ để cải thiện một vùng trên cơ thể mà khiến bụng bị biến dạng.Khi cần một lượng nhỏ, chúng ta đưa cannula qua rốn để lấy mỡ; khi cần số lượng lớn hơn, chúng tôi thực hiện hai đường rạch bên bổ sung 2 bên để có thể đi qua các đường hầm và đảm bảo rằng không có bất thường sau khi lấy mỡ bụng (Hình 6.2a). Với ống cannula 3 mm thẳng mà không cần hút lấy mỡ, chúng tôi thường xuyên đẩy qua lại toàn bộ vùng bụng nơi mỡ vừa lấy để làm đều lại da bụng và loại bỏ những vết lõm (Hình 6.2b).

Sườn

Đôi khi khi chúng ta đã chọn vùng bụng để lấy mỡ, nhưng phát hiện ra là cần nhiều mỡ hơn. Trong trường hợp này, cúng ta có thể dễ dàng lấy mỡ từ vùng sườn (với điều kiện là bệnh nhân có đủ lượng lượng mỡ) sử dụng cùng một vết rạch da ở phía ngoài mà đã vừa lấy mỡ vùng bụng (Hình 6.3).

Mặt trong đùi.

Ở những bệnh nhân gầy, lượng mỡ ở bụng không đủ để cấy ghép, cần thiết có thể lấy từ mặt trong của đùi (Hình 6.4). Nếu thực hiện kỹ thuật lấy mỡ chính xác thì vết mổ bị ẩn trong nếp lằn bẹn, vùng này sẽ rất dễ điều chỉnh. Bệnh nhân có xu hướng rất vui vẻ và không cảm nhận được bị lấy đi một số lượng mỡ ở vùng này, nhưng phải hết sức cẩn thận vì cũng dễ để lại những bất thường.

Hình. 6.1 Vị trí cho mỡ
Hình. 6.1 Vị trí cho mỡ

Hông

Hông nằm ở một vị trí rất thuận tiện và cung cấp một lượng mỡ tốt. Trước lấy mỡ, chúng ta phải chỉ cho bệnh nhân biết nơi sẽ rạch da để hút mỡ. Hút lấy mỡ thì chỉ cân 1 vết rạch da, nhưng chúng tôi thích thực hiện 2 đường rạch da và hút qua các vị trí rạch da ở trên và dưới của vùng lấy mỡ (Hình 6.5).

Mặt sau của đùi

Đôi khi, cần phải hút để loại bỏ mỡ từ nhiều vùng hơn, ví dụ, nếu cần nhiều khối lượng mỡ hơn hoặc nếu mỡ không có sẵn ở các vùng lấy mỡ thông thường.Trong những trường hợp này, chúng tôi sử dụng mặt sau của đùi (Hình 6.6). Đây cũng là một vùng rất thuận lợi, nhưng nhược điểm là khi lấy mỡ xong thì bệnh nhân phải nằm lật ngược lại.

Mặt trong của đầu gối

Mặt trong của đầu gối là nơi sử dụng lấy mỡ thường xuy-ên, đặc biệt là ở phụ nữ trẻ, gầy vì đây là vùng luôn có lượng mỡ nhỏ tích tụ ở phụ nữ (mặc dù không phải ở nam giới).

Để có được mỡ, sau khi tiêm dung dịch tumescent, chúng ta véo da và lấy mỡ bằng ống can-nula nhiều lỗ ở đầu (Hình 6.7).

Hình. 6.2 (a) Hút mỡ bụng. (b) Làm đều vùng da vừa lấy mỡ bằng cách dùng cannula 3-mm thẳng, không hút mỡ ra
Hình. 6.2 (a) Hút mỡ bụng. (b) Làm đều vùng da vừa lấy mỡ bằng cách dùng cannula 3-mm thẳng, không hút mỡ ra
Hình. 6.2 tiếp
Hình. 6.2 tiếp
Hình 6.3 Vùng sườn: Có thể thực hiện hút lấy mỡ đủ số lượng mà không cần thay đổi tư thế của bệnh nhân
Hình 6.3 Vùng sườn: Có thể thực hiện hút lấy mỡ đủ số lượng mà không cần thay đổi tư thế của bệnh nhân
Hình. 6.5 Vùng hông
Hình. 6.5 Vùng hông
Hình. 6.6 Mặt sau đùi
Hình. 6.6 Mặt sau đùi
Hình. 6.7 Mặt trong gối
Hình. 6.7 Mặt trong gối

Hút lấy mỡ

Sau khi chọn vùng lấy mỡ, đầu tiên, dùng ống cannu-la hơi cùn để chích dung dịch tumescent theo nhiều hướng, nhiều lớp khác nhau. Khi thực hiện phẫu thuật hút mõ dưới gây tê tại chỗ, thì dung dịch tumescent có chứa 0,05% li-docaine trong dung dịch nước muối và epinephrine 1:200.000. Khi thực hiện phẫu thuật dưới gây mê toàn thân, có thể chích dung dịch tumescent bằng thuốc co mạch pha loãng trong dung dịch nước muối hoặc bằng cách thêm nồng độ thuốc tê tại chỗ với nồng độ thấp (0,02% lidocaine). Sau khi tiêm dung dịch tumescent, chúng tôi đợi khoảng 20 phút trước khi bắt đầu hút mỡ.

Áp suất hút có thể được tạo ra bằng cách hút ống tiêm cầm tay hoặc với máy hút mỡ ở áp suất thấp, khoảng 0,5 atm.

Để có được phương pháp ghép mỡ cấu trúc, sử dụng ống cannula 3 mm. Nếu mục đích là để có được mỡ ghép microfat, cho dù chúng được tiêm bằng ống cannula hoặc kim tiêm (trong trường hợp kim chích mỡ vào trong da: sharp needle intradermal fat grafts [SNIF]), mảnh ghép nano và nhũ tương hoặc mỡ phân đoạn, ống cannu-la hút lấy mỡ kích cỡ 1 mm có lằn và đầu vát là rất thuận lợi. Khi chúng ta đã lấy được mỡ, đặt mỡ trên lưới (Hình 6.8).

Hình. 6.8 Lấy mỡ
Hình. 6.8 Lấy mỡ

Kỹ thuật xử lý mỡ và tiêm

Ghép mỡ cấu trúc

Như đã thảo luận trong chương 3, một loạt các phương pháp có thể được sử dụng để cô lập mỡ từ các thành phần khác của hỗn dịch hút ra. Mặc dù vẫn chưa có sự thống nhất chung về phương pháp nào đạt được kết quả tốt nhất và ít gây tổn thương tế bào mỡ nhất, nhưng trong thực tế lâm sàng, chúng tôi sử dụng phương pháp ly tâm, lọc và gạn lấy mỡ ghép mỡ cấu trúc và thu được kết quả tương tự.

Trong trường hợp ly tâm, chúng tôi sử dụng máy ly tâm nghiên với tốc độ 2000 vòng/phút trong 2 phút. Sau khi ly tâm, có thể quan sát thấy ba mức trong ống tiêm. Mức thấp hất chứa máu và mảnh vụn, nước và các thành phần của dung dịch tumescent; lớp ở giữa gồm các mảnh mỡ nhỏ; và lớp trên cùng chứa dầu do các axit béo bị phá vỡ. Chúng tôi loại bỏ lớp dưới cùng có chứa thuốc tê và máu và sau đó loại bỏ phần trên có chứa các giọt mỡ nhỏ bằng một miếng gạc nhỏ (Hình 6.9a).

Sau đó, chúng tôi kết nối ống tiêm 10 ml với mỡ sạch với đầu nối hoặc khóa ba chiều với ống tiêm 1- hoặc 2 mL và chuyển mỡ. Chúng tôi kết nối ống tiêm với ống cannula 1.6 mm và thực hiện tiêm ghép mỡ (Hình 6.9b) [1].

Ghép Microfat và kim nhọn

Mỡ trong da (SNIF)Kỹ thuật khử và rửa của chúng tôi đã cho chúng tôi kết quả rất tốt, vì đây là phương pháp khép kín và mỡ thu được rất sạch. Đầu tiên, chúng tôi hút mỡ bằng ống tiêm 10 ml, tạo chân không với ống tiêm và ống cannula hoa tulip.

Sau này, chúng tôi chỉ lấp đầy một nửa ống tiêm, tức là, 5 mL. Sau đó, chúng tôi lấp đầy ống tiêm lên đến 9 mL với 4 mL Ringer lactate. Chúng tôi rút thuyên tắc của ống tiêm 1 mL để tạo khoảng trống.

Bây giờ chúng ta có không gian này, chúng ta lắc ống tiêm một chút để làm sạch mỡ và sau đó để nó đứng thẳng trong vài phút. Trong vài phút, một số mỡ rất vàng xuất hiện nổi trên bề mặt; dưới đây là phần còn lại của máu và thuốc mê. Nếu nó không đủ sạch, chúng tôi làm trống phần dưới trong suốt này và hút 4 ml Ringer Lactate, lắc lại và gạn lại để nó được làm sạch hoàn toàn. Sau đó, chúng tôi làm trống mức thấp hơn và chuyển mỡ đã được tinh chế vào ống tiêm 1 ml để tiêm (Hình 6.10a).

Để tiêm mỡ ghép micro-fat, chúng tôi sử dụng ống can-nula có đường kính nhỏ hơn 1 mm (thường khoảng 0,7 mm). Việc lựa chọn ống cannula hơi thẳng hay cong phụ thuộc vào vùng cần chỉnh sửa. Thực hiện tiêm trong mặt phẳng dưới da (Hình 6.10b) [2].

Khi tiêm mỡ này vào các mặt phẳng nông hơn, như trong trường hợp SNIF, sử dụng kim sắc nhọn 23-G [3].

Nhũ tương, mỡ phân đoạn và kim chích mỡ vào trong da (SNIE)

Sau khi lấy mỡ và rửa sạch, chúng tôi lấy một ống tiêm có 5 ml mỡ và thông qua một nút khóa ba chiều nối nó với một ống tiêm 10 ml rỗng. Chúng tôi chuyển mỡ từ ống tiêm này sang ống tiêm khác ít nhất 30 hoặc 40 lần. Nó sẽ hóa lỏng dần dần, và có ít mảnh mỡ nhỏ hơn; dần dần hình thành nhũ tương (Hình 6.11a).

Sau khi mỡ đã nhũ tương tốt, chúng ta rửa lại một lần nữa để loại bỏ axit béo và sau đó hút thêm 4 ml ringer lactate bằng ống tiêm có chứa nhũ tương và lắc đều. Sau đó, chúng tôi lại khử nhũ tương một lần nữa, và mặc dù đã trong suốt hơn, có thể nhìn thấy hai lớp: nhũ tương ở trên và dung dịch rửa ở phía dưới. Chúng tôi loại bỏ dung dịch rửa và chuyển nhũ tương vào ống tiêm 1- hoặc 2 mL.

Ví dụ, chúng tôi tiêm nhũ tương này bằng ống cannula có đường kính 0,5 mm để làm đầy vùng rãnh lệ, hoặc bằng kim 25 G (SNIE) trong trường hợp tiêm trong da (Hình 6.11b). Khi đếm tế bào đã cho thấy rằng nhũ tương có số lượng tế bào phân đoạn mạch máu tương tự như nanofat [4].

Ghép Nanofat

Để tạo ra nanofat, như được mô tả bởi Tonnard et al. [4], chúng tôi chuẩn bị nhũ tương và sau đó lọc nó qua một miếng vải hoặc lưới có lỗ hoặc lỗ 0,5 mm.Theo cách này, các sợi col-lagen và phần còn lại của màng vẫn ở phía trên và một chất lỏng ở phía dưới, nanofat. Dùng một ống tiêm 2 ml để hút các nano-fat và chuyển qua một đường ba chiều vào một ống tiêm 1 ml; sau đó kết nối với kim 27 G và tiêm vào lớp hạ bì (Hình 6.12) [4]. Việc chuẩn bị chất lỏng cao này rất có ích, ví dụ như để cải thiện màu sắc của vùng da bên dưới mí mắt. Khi đếm tế bào đa cho thấy rằng: nanofat có số lượng tế bào cùng với phân đoạn mạch máu giống như nhũ tương.

Hình. 6.9 Ly tâm mỡ. (a) Thấy 3 mức sau khi ly tâm; phân lập mỡ. (b) Chuyển mỡ sang những syringes nhỏ hơn để tiêm, có thể tiêm bằng cannula ở mặt phẳng dưới da.
Hình. 6.9 Ly tâm mỡ. (a) Thấy 3 mức sau khi ly tâm; phân lập mỡ. (b) Chuyển mỡ sang những syringes nhỏ hơn để tiêm, có thể tiêm bằng cannula ở mặt phẳng dưới da.
Hình. 6.9 (tiếp theo)
Hình. 6.9 (tiếp theo)
Hình 6.10 Kỹ thuật gạn và rửa mỡ. (a) Một phương pháp nhanh và đơn giản để rửa mỡ và gạn mỡ bằng cách đổ đầy từng ống tiêm bằng hỗn hợp 50% mỡ và 50% dung dịch nước muối. (b) Sử dụng phương pháp này để ghép microfat và SNIF, vì mỡ thu được khi ly tâm nhỏ gọn hơn và có nhiều khả năng gây tắc trong ống cannula nhỏ hoặc ống tiêm.
Hình 6.10 Kỹ thuật gạn và rửa mỡ. (a) Một phương pháp nhanh và đơn giản để rửa mỡ và gạn mỡ bằng cách đổ đầy từng ống tiêm bằng hỗn hợp 50% mỡ và 50% dung dịch nước muối. (b) Sử dụng phương pháp này để ghép microfat và SNIF, vì mỡ thu được khi ly tâm nhỏ gọn hơn và có nhiều khả năng gây tắc trong ống cannula nhỏ hoặc ống tiêm.
Hình. 6.10 (tiếp theo)
Hình. 6.10 (tiếp theo)
Hình 6.11 Nhũ tương hoặc mỡ phân đoạn. (a) Cơ chế nhũ tương của mảnh ghép microfat được làm từ hai ống tiêm và sau đó rửa sạch và gạn mỡ. (b) Có thể thực hiện tiêm ghép mỡ bằng ống cannula (nhũ tương hoặc mỡ phân đoạn) hoặc ống syringe (SNIE, tiêm nhũ tương vào trong da bằng kim nhọn)
Hình 6.11 Nhũ tương hoặc mỡ phân đoạn. (a) Cơ chế nhũ tương của mảnh ghép microfat được làm từ hai ống tiêm và sau đó rửa sạch và gạn mỡ. (b) Có thể thực hiện tiêm ghép mỡ bằng ống cannula (nhũ tương hoặc mỡ phân đoạn) hoặc ống syringe (SNIE, tiêm nhũ tương vào trong da bằng kim nhọn)
Hình. 6.11 (tiếp theo)
Hình. 6.11 (tiếp theo)
Hình 6.12 Ghép Nanofat: cơ chế nhũ tương và sau đó là lọc. Chất lỏng thu được sau khi lọc thì gọi là nanofat. Tiêm nanofa bằng kim 27 G
Hình 6.12 Ghép Nanofat: cơ chế nhũ tương và sau đó là lọc. Chất lỏng thu được sau khi lọc thì gọi là nanofat. Tiêm nanofa bằng kim 27 G

Sử dụng các yếu tố tăng trưởng tiểu cầu trong trẻ hóa vùng mặt

Để có được tiểu cầu, điều rất quan trọng là sử dụng một máy xoay để đảm bảo rằng các ống chứa máu vẫn hoàn toàn nằm ngang sau khi quay trong máy ly tâm. Nếu sử dụng một máy xoay xiên hoặc đứng, tiểu cầu bị tác động với các tế bào hồng cầu, và không còn lại ở phần trên của ống nghiệm.

Khi lấy máu, điều quan trọng là phải đảm bảo rằng kim không làm hỏng mạch máu bỡi vì nếu không nó sẽ bị đục và tiểu cầu sẽ không được tách ra sau khi ly tâm. Sử dụng kim luồn trong tĩnh mạch, chúng tôi hút bằng ống lấy máu có chứa ci-trate. Chúng tôi cũng có thể sử dụng ống tiêm 20 ml và thêm 2 mL natri citrat.

Lắc đều hỗn hợp này và đặt vào máy ly tâm dao động với tốc độ 1800 vòng/phút trong 8 phút (Hình 6.13a). Sau này, sẽ xuất hiện ba mức: ở trên nhất là tiểu cầu và huyết tương; rất ít, sau đó ở giữa có màu đen hơn là lớp bạch cầu , tốt hơn là không nên lấy bỏ lớp bạch cầu này vì nó có thể làm tăng phản ứng viêm; và cuối cùng là mức dưới nhất với các tế bào hồng cầu.

Sau khi thu được tiểu cầu, ống được đặt thẳng đứng trong giá đỡ. Lớp 1/3 trên cùng của tiểu cầu bao gồm rất ít huyết tương trong yếu tố tăng trưởng (plas-mapoor in growth factor:PPGF); lớp 1/3 giữa, yếu tố tăng trưởng huyết tương (plasma growth factor: PGF) với cùng nồng độ tiểu cầu như trong máu; và lớp 1/3 dưới cùng, huyết tương giàu yếu tố tăng trưởng (plasma rich in growth factor:PRGF). Sau đó với một pipet, chúng tôi tách các tiểu cầu từ phần còn lại. Nếu chúng tôi muốn lấy được PRGF, chúng tôi sẽ loại bỏ hai phần ba trên của ống nghiệm. Nếu chúng ta muốn sử dụng tiểu cầu làm chất chống viêm trong vùng cần thực hiện liệu pháp tiêm trong da, chúng ta sử dụng toàn bộ nồng độ tiểu cầu (Hình 6.13b).

Sau khi có được tiểu cầu, chúng được kích thích trước khi tạo ra hỗn hợp. Thực hiện điều này với canxi clorua theo tỷ lệ 1:20, tức là, 1 ml canxi clorua thì thêm vào 20 ml tiểu cầu.

Nếu chúng ta muốn thực hiện liệu pháp tiêm trong da, điều quan trọng là phải thực hiện kỹ thuật nhanh; một khi tiểu cầu được kích thích bằng canxi clorua, chúng tạo thành gel và sau đó dung dịch không thể tiêm được. Nếu quá trình này bị bỏ qua, tuy nhiên tiểu cầu sẽ bị kích thích một lần trong cơ thể.

Có thể trộn tiểu cầu với microfat, nhũ tương hoặc cũng có thể với nanofat. Khi chúng ta muốn thực hiện liệu pháp tiêm trong da, chúng ta trộn chúng với nhũ tương hoặc nanofat. Chúng cũng có thể trộn với vi-tamin; tức là, hỗn hợp chỉ có thể chứa các tiểu cầu chống viêm mà chúng ta sử dụng trong căng da mặt hoặc tiểu cầu cộng với nhũ tương trong trường hợp tiêm trong da. Khi chúng tôi thực hiện tiêm trong da và chỉ cần một lượng nhỏ, chúng tôisử dụng phần PRGF và đôi khi thêm vitamin vào hỗn hợp. Do đó, việc lựa chọn hỗn hợp phụ thuộc vào nhu cầu của từng bệnh nhân (Hình 6.13c).

Trong căng da mặt, chúng tôi sử dụng tiểu cầu toàn bộ vùng tách ra làm chất chống viêm và đậy lại.

Trong liệu pháp tiêm trong da với da bị tổn thương cao, chúng tôi sử dụng tiểu cầu với vitamin.Để lấp đầy vùng má, rãnh mũi má và đường marionette, chúng tôi sử dụng tiểu cầu cùng với nhũ tương hoặc microfat [5].

Hình 6.13 Yếu tố tăng trưởng tiểu cầu. (a) Máu thu được bằng ống citrate và ly tâm trong máy ly tâm dao động. (b) Ba mức sau khi ly tâm. Đối với sự thoái hóa của hạt tiểu cầu alpha, kích hoạt là cần thiết. (c) Nó có thể được kết hợp với mỡ, nhũ tương, nanofat hoặc vitamin để tiêm khớp,
Hình 6.13 Yếu tố tăng trưởng tiểu cầu. (a) Máu thu được bằng ống citrate và ly tâm trong máy ly tâm dao động. (b) Ba mức sau khi ly tâm. Đối với sự thoái hóa của hạt tiểu cầu alpha, kích hoạt là cần thiết. (c) Nó có thể được kết hợp với mỡ, nhũ tương, nanofat hoặc vitamin để tiêm khớp,
Hình 6.13 tiếp tục
Hình 6.13 tiếp tục
Hình 6.13 tiếp tục
Hình 6.13 tiếp tục

Tài liệu tham khảo

  1. Coleman SR. Facial aug-mentation with structural fat grafting. ClinPlast Surg. 2006;33:567–77.
  2. Lindenblatt N, van Hulle A, Verpaele AM, Tonnard PL. The role ofmicrofat grafting in facial con-touring. Aesthet SurgJ. 2015;35:763–71.
  3. Zeltzer AA, Tonnard PL, Verpaele AM. Sharp-needle in-tradermalfat grafting (SNIF). Aesthet Surg J. 2012;32:554–61.
  4. Tonnard P, Verpaele A, Peeters G, Hamdi M, Cornelissen M, Declercq H. Nanofat grafting: basic research and clinical ap-plications. Plast Reconstr Surg.2013;132:1017–26.
  5. Serra-Mestre JM, Serra-Re-nom JM, Martinez L, Almadori A,D’Andrea F. Platelet-rich plas-ma mixed-fat grafting: a reason-able prosurvival strategy for fat grafts? Aesthetic Plast Surg.2014;38:1041–9.
Để lại một bình luận (Quy định duyệt bình luận)

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

The maximum upload file size: 1 MB. You can upload: image. Drop file here