Tác giả: Jose Maria Serra-Renom
Biên dịch: Thạc sĩ – Bác sĩ Đinh Công Phúc
nhathuocngocanh.com – Bài viết Ghép mỡ mặt, vùng má: Nâng những chỗ lõm ở mặt được trích từ chương 7, 9 sách Kỹ thuật ghép mỡ ở vùng mặt. Căng da mặt đường mổ nhỏ.
Ghép mỡ mặt
Để có thể đạt được kết quả trông tự nhiên nhất, điều cần phải thiết là phải tạo được các đường viền trẻ hóa ở mặt, bổ sung cho các phương pháp thông thường có thể điều chỉnh da dư thừa lỏng lẻo với các kỹ thuật để cung cấp thể tích tại các điểm đã bị mất ở vùng mặt.Các khoang mỡ nông và các túi mỡ sâu có liên quan mật thiết với nhau bởi các màng liên kết giúp ổn định việc cung cấp máu cho da bỡi các mạch xuyên ra da, phải xem xét khi thay thế thể tích đã mất bằng thể tích tương đương chính xác trên khuôn mặt [1].
Đối với các khoang mỡ nông, mỡ vùng mũi (nasolabial fat: NLF) và khoang mỡ vùng má phía trong nông (superficial medial cheek: SMC) chủ yếu tạo thành vùng trung tâm của khuôn mặt. Cao hơn so với SMC và trên cơ vòng mi là túi mỡ trong ổ mắt, túi mỡ này dường như có ít đường dẫn lưu bạch huyết. Từ bên ngoài đến góc mắt ngoài, cókhoang mỡ má nông ở giữa và khoang mỡ thái dương ngoài.Các khoang mỡ sâu bao gồm mỡ nằm dưới cơ vòng mi (sub-orbicularis oculi fat: SOOF), có 2 túi mỡ trong và ngoài và nằm sâu dưới cơ vòng mi ở mí mắt dưới và nằm ngay sát dưới một tổ chức cân dày đặc gọi là hệ thống cân mạc nông (superfi-cial muscular aponeurotic sys-tem SMAS) bao bọc cơ vòng mi. Ở vùng giữa mặt, thì khoang mỡ trong-sâu (deep medial cheek: DMC), chia thành một đơn vị phía trong nằm sâu và từ kho-ang mỡ phía trong đến khoang mỡ mũi-má và một phần ngoài (DLC), đó là được tìm thấy từ sâu tới SMC, có lẽ là khoang mỡ quan trọng nhất khi cải thiện độ nhô mong muốn ở vùng má trước. Khi tiêm mỡ vào kho-ang này, nên tránh tiêm mỡ ra bên phía ngoài để tránh mỡ di chuyển đến chỗ thấp của má. Phần mở rộng của túi mỡ má là nằm ngay bên cạnh DLC [1 -3].
Trong các chương tiếp theo, chúng tôi sẽ mô tả các vùng nơi để tiêm mỡ vào vùng mặt theo thứ tự địa hình từ trán đến cổ (Hình. 7.1)
Ghép mỡ má: Nâng những chỗ lõm ở mặt
Theo chúng tôi, việc điều chỉnh những vector âm (chỗ lõm) trên khuôn mặt là một trong những ứng dụng quan trọng nhất của phương pháp ghép mỡ trong trẻ hóa vùng mặt. Thuật ngữ vectơ âm đề cập đến như da bị chảy xệ và teo các khoang mỡ ở má, làm cho mí dưới trông chảy xệ khi nhìn ng-hiên và khi góc của má nằm phía sau bề mặt giác mạc [1, 5].
Một khuôn mặt trẻ có mí mắt dưới ngắn và tròn cong đầy đặn trước hơn so với bề mặt giác mạc khi nhìn nghiên; do đó, khi người đó đang cười, túi mỡ má nổi lên, mang lại vẻ ngoài trẻ trung hơn. Cách hiệu quả nhất để đạt được các tính năng này là chuyển đổi vectơ âm (lõm) ở vùng giữa mặt trên thành vectơ dương (lồi) ở giữa mặt trên.
Khi ghép mỡ ở má cũng giúp làm cho hai gò má đối xứng hơn; thực tế, đó là kỹ thuật duy nhất cho phép chúng ta cân bằng hoàn toàn xương gò má. Nhờ các đặc tính của ghép mỡ có phân đoạn mạch máu, nên chất lượng của da cũng được cải thiện sau khi tiêm [4].
Để ghép mỡ ở má, chúng tôi sử dụng hai điểm vào. Điểm đầu tiên nằm dưới góc mắt ngoài 2 cm ngang mức với cung xương gò má. Với ống Abbocath 14 G, chúng tôi tạo ra một điểm vào để đưa ống chích cannu-la Coleman. Chúng tôi tạo các đường hầm hình nang quạt sâu xiên ngang qua vùng má, lấp đầy từ bờ xương ổ mắt xuống dưới và đến bên ngoài mũi và rãnh mũi má. Chúng tôi đưa ống cannula qua và tiêm mỡ vào, tiêm lùi kim. Chúng tôi sử dụng từ 5 – >7 ml microfat ở những điểm này.
Sau đó, thực hiện điểm vào thứ hai ở phần dưới của rãnh mũi má ngang mức mép miệng bằng ống cannula Abbo-cath 14 G hướng lên trên. Sau đó, qua cannula Coleman, chúng tôi tạo ra ba, bốn hoặc năm đường hầm hình quạt cho đến khi có được hình dạng chính xác (Hình 9.1). Điều rất quan trọng là không tiêm microfat vào mí mắt dưới vì nguy cơ sẽ hình thành u nang [4, 5].
Tài liệu tham khảo
- Pessa JE, Desvigne LD, Za-doo VP. Changes in ocular globe-toorbital rim position with age: implications for aes-thetic blepharoplasty of the lower eyelids. Aesthetic Plast Surg. 1999;23:337–42.
- Yaremchuk MJ. Subperioste-al and full-thickness skin rhyt-idectomy. Plast Reconstr Surg. 2001;107:1045–57.
- Shaw Jr RB, Katzel EB, Koltz PF, Yaremchuk MJ, Girotto JA,Kahn DM, Langstein HN. Aging of the facial skeleton: aestheticimplications and rejuvenation strategies. Plast Reconstr Surg.2011;127:374–83.
- Serra-Renom JM, Serra-Me-stre JM. Periorbital rejuvena-tion to improve the negative vector with blepharoplasty and fat grafting in the malar area. Ophthal Plast Reconstr Surg. 2011;27:442–6.
- Rohrich RJ, Ghavami A, Constantine FC, Unger J, Mo-jallal A. Liftandfi ll face lift: integrating the fat compart-ments. Plast ReconstrSurg. 2014;133:756e–67e.
- Rohrich RJ, Pessa JE. The fat compartments of the face: anat-omy and clinical implications for cosmetic surgery. Plast Re-constr Surg. 2007;119:2219–27; discussion 2228–31.
- Gierloff M, Stöhring C, Bud-er T, Wiltfang J. The subcuta-neous fat compartments in relation to aesthetically import-ant facial folds and rhytides. J Plast Reconstr Aesthet Surg. 2012;65:1292–7.
- Surek CC, Beut J, Stephens R, Jelks G, Lamb J. Pertinent anat-omy and analysis for midface volumizing procedures. Plast Reconstr Surg. 2015;135:818e–29.