Tác giả: Kyle K. Seo
nhathuocngocanh.com – Bài viết Cải thiện nếp gấp mũi – miệng bằng kỹ thuật tiêm chất làm đầy được trích trong chương 4 trong sách Căng Da Mặt Với Chất Làm Đầy.
Mức độ khó: A
Hiệu quả: B
Biến chứng: B
Tóm tắt 1: Tiêm bằng ống thông dày 23-G 5 cm để giảm thiểu chấn thương cho động mạch mặt chạy dọc theo nếp gấp mũi – miệng. Cả chất làm đầy HA hai pha với kích thước hạt lớn và chất làm đầy HA một pha có độ nhớt – đàn hồi cao đều được chấp nhận sử dụng.
Tóm tắt 2: Nếp gấp mũi – miệng là một trong những vòng cung ba chiều tạo nên khuôn mặt con người. Tương ứng, tốt nhất nên tránh chỉnh sửa rãnh cánh mũi nằm bên cạnh cánh mũi; nếu không thì chỉ thực hiện với khổi lượng nhỏ trong những trường hợp nghiêm trọng. Thay vào đó, hầu hết việc điều chỉnh thể tích nên được hướng vào vùng 2/3 dưới của nếp gấp mũi – miệng.
Tóm tắt 3: Cần xem xét cả thành phần động và thành phần tĩnh của nếp gấp mũi – miệng. Phương pháp tiêm thích hợp phải được điều chỉnh theo bản chất (tức là tĩnh hay động) của nếp nhăn mũi miệng.
Tóm tắt 4: Nên khôi phục thể tích đồng thời nếu đồng thời xuất hiện bất kỳ đường rãnh môi – hàm hoặc hõm má nào.
Nếp gấp mũi – miệng là những nếp nhăn kéo dài theo chiều xiên từ rãnh cánh mũi nằm ở bên cạnh cánh mũi xuống đến các góc ngoài của môi. Chúng được hình thành dọc theo ranh giới giữa túi mỡ má và các điểm gắn vào bề mặt da tương ứng của các cơ nâng môi trên và cơ gò má lớn. Điều đáng chú ý là, tương tự như cách nếp nhăn dưới ổ mắt chạy ngang bên dưới bọng mắt mà không tạo thành đường mảnh trên khuôn mặt do lão hóa, các nếp gấp mũi – miệng là một trong những đường cung chính tạo nên khuôn mặt ba chiều một cách tự nhiên như một đường dốc chuyển tiếp giữa má cao và môi. Do đó, ngay cả những người trẻ tuổi ở độ tuổi thanh thiếu niên cũng có nếp gấp mũi – miệng, mặc dù nếp gấp có thể sâu hơn và dài ra theo tuổi tác do da mất tính đàn hồi và túi mỡ má bắt đầu chảy xệ và phình lên ở phía dưới. Do đó, không nên cố gắng loại bỏ hoàn toàn rãnh cánh mũi trong quá trình điều trị nếp gấp mũi miệng bằng chất làm đầy HA, vì sự kết hợp thể tích đã tiêm với túi mỡ má nằm ngay phía trên sẽ khiến khuôn mặt mất tính ba chiều, và cuối cùng tạo ra một khuôn mặt không tự nhiên.
Tùy thuộc vào nguyên nhân cơ bản, các nếp gấp mũi – miệng cần cải thiện thẩm mỹ với chất làm đầy HA bao gồm các nếp gấp tĩnh sâu có thể nhìn thấy ngay cả khi nghỉ ngơi và nếp gấp động chỉ xuất hiện khi khuôn mặt động như nói chuyện và mỉm cười do hoạt động của các cơ liên quan bao gồm cả nâng môi trên và cơ gò má lớn. Da mất độ đàn hồi do lão hóa có thể làm trầm trọng thêm sự xuất hiện của các nếp gấp động, đồng thời đường rãnh lặp đi lặp lại ở vùng mũi miệng theo thời gian cuối cùng làm cho các nếp gấp này sâu hơn và kéo dài thành các nếp gấp tĩnh. Điều trị nếp gấp mũi miệng tĩnh sâu bằng cách đặt chất làm đầy HA trực tiếp vào nếp gấp (Hình 4.81). Ngược lại, các nếp gấp mũi – miệng động được xử lý bằng kỹ thuật tiêm kiểu dương xỉ nhằm mục đích tăng cường độ đàn hồi và khả năng phục hồi tổng thể của vùng da xung quanh (Hình 4,82) [26].
Hình 4.81 (a) Trước và (b) sau khi điều trị các nếp gấp mũi – miệng tĩnh sâu. Hình 4.82 (a) Trước và (b) sau khi điều trị nếp gấp mũi – miệng động bằng kỹ thuật tiêm kiểu dương xỉ.
Cân nhắc giải phẫu
Các cơ nâng môi trên bao gồm LLSAN (cơ nâng môi trên cánh mũi), LLS (cơ nâng môi trên), cơ gò má nhỏ, và một số sợi cơ của cơ gò má lớn đính trực tiếp vào da phía trên nếp gấp mũi – miệng (Hình 4.83) [27]. Các cơ này đính vào da nơi các nếp gấp mũi – miệng hình thành sẽ làm nổi bật các nếp gấp mũi – miệng khi cười do sự co cơ (tức là các nếp gấp mũi – miệng động) và vạch ra ranh giới giữ cho túi mỡ má nằm trên nếp gấp khỏi chảy xuống. Ranh giới này ngày càng sâu theo thời gian cuối cùng dẫn đến các nếp gấp mũi – miệng tĩnh hiện rõ ràng khi nghỉ ngơi. Xem xét nguồn gốc, sự dính vào da và hướng của mỗi cơ co thắt cơ mặt này, có thể chỉ ra rằng một phần ba phía trong của nếp gấp mũi – miệng được tạo thành bởi LLSAN và LLS, một phần ba ở giữa do cơ gò má nhỏ, và 1/3 phía ngoài do cơ gò má lớn.
Việc sử dụng ống thông được ưu tiên hơn dùng kim để tránh làm tổn thương động mạch mặt chạy song song hoặc là dọc theo nếp mũi miệng. Cần thận trọng để không làm đứt động mạch mặt, vì nó có thể gây tụ máu trên diện rộng (Hình 4.76).
Các nhánh động mạch mặt từ động mạch cảnh ngoài, móc quanh điểm nhánh của động mạch mặt mà từ đó nó xuất hiện trở lại, và đi qua phía trước cơ cắn rồi uốn khúc lên đến điểm mũi nasion. Dọc theo đường đi, nó phát sinh các nhánh động mạch môi dưới, động mạch môi trên và động mạch mũi ngoài rồi kết thúc bằng động mạch góc. Do động mạch môi trên thường phát sinh từ động mạch mặt trong khu vực 15 mm bên trên phía ngoài khóe miệng, đặc biệt sử dụng kim thật cẩn thận ở vùng này để không làm tổn thương mạch máu liên quan [27]. Cũng lưu ý rằng dù động mạch mặt chủ yếu chạy sâu đến các cơ co thắt, nhưng nó vẫn dễ bị tổn thương khi đi qua các khoảng trống ngay trên và dưới cơ cười. Do đó, cần thận trọng khi tiêm phân đoạn này bằng kim vì động mạch mặt chạy nông bên dưới da mà không có bất kỳ sự bảo vệ nào. Tương tự như vậy, khi dùng kim chọc thủng điểm vào của ống thông, cần chú ý đưa kim vào thật chậm, ở một góc gần như nằm ngang với da với góc xiên hướng xuống dưới để không làm chấn thương động mạch mặt đang chạy nông ở khu vực này. Sưng tấy đột ngột xảy ra trong vài giây sau khi tiêm, sau đó là một khối máu tụ có thể sờ thấy được cho thấy rằng động mạch mặt đã bị đâm ngang.
Kyle K. SeoCăng Da Mặt Với Chất Làm Đầy223e-bacsy.comHình 4.83 Các cơ nâng môi trên bao gồm LLSAN (cơ nâng môi trên cánh mũi), LLS (cơ nâng môi trên), cơ gò má nhỏ, và một số sợi cơ của cơ gò má lớn đính trực tiếp vào da phía trên nếp gấp mũi – miệng
Đánh giá trước điều trị
Xác định loại nếp nhăn mũi – miệng mà bệnh nhân muốn cải thiện, đó là nếp nhăn mũi – miệng tĩnh sâu có thể nhìn thấy khi nghỉ ngơi hay nếp gấp mũi – miệng động nổi bật được hình thành khi cười và điều chỉnh cách tiếp cận cho phù hợp. Xác định sự hiện diện của bất kỳ má hóp, rãnh môi hàm, da má dưới hàm chảy xệ hoặc túi mỡ mũi miệng nổi rõ ở các vùng lân cận để đảm bảo tổng thể khuôn mặt cân đối và hài hòa. Má hóp nên được phục hồi kết hợp với nếp gấp mũi – miệng, vì nếu chỉ chỉnh sửa các nếp gấp mũi – miệng có thể dẫn đến hình dáng khuôn mặt không cân đối. Khi các nếp gấp mũi – miệng kéo dài đến các rãnh môi hàm, nên chỉnh sửa đồng thời các rãnh môi hàm. Trong khi đó, tiêm quá nhiều vào túi mỡ mũi môi sẽ góp phần làm nếp nhăn mũi – miệng sâu hơn do má trên bị chùng xuống và gập ngang nếp gấp mũi miệng. Trong trường hợp này, kết quả có thể được tối ưu hóa bằng cách tiêm giảm mỡ hoặc hút mỡ bổ trợ, lý tưởng là trước khi chỉnh sửa nếp gấp mũi miệng bằng chất làm đầy HA. Tương tự như vậy, bệnh nhân có da má dưới hàm chảy xệ có thể điều trị tốt hơn khi đồng thời tiêm giảm mỡ, hút mỡ hoặc nâng chỉ.
Kỹ thuật tiêm (Bảng 4.13)
Nếp nhăn mũi- miệng tĩnh sâu
Cả chất làm đầy HA hai pha với kích thước hạt lớn và chất làm đầy HA một pha có độ nhớt – đàn hồi cao đều được chấp nhận để điều trị các nếp gấp mũi miệng tĩnh sâu. Ống thông A23-G 5 cm được sử dụng để tiêm. Ống thông A25-G hoặc 27-G cũng có thể được sử dụng để thực hiện phân lớp kép ở lớp mỡ nông dưới da.
Lưu ý rằng nếp gấp mũi miệng không bao giờ làm đầy hoàn toàn vì nó tạo thành cấu trúc đường cong ba chiều cơ bản của khuôn mặt người. Điều này đặc biệt áp dụng cho rãnh cánh mũi nằm bên cạnh cánh mũi. Việc lấp đầy hoàn toàn rãnh cánh mũi sẽ loại bỏ tính đa chiều khỏi khu-ôn mặt, làm cho khuôn mặt có vẻ chùng và nặng nề, đồng thời làm đầy quá mức túi mỡ mũi – môi trên nếp gấp mũi miệng. Hơn nữa, chuyển động lặp đi lặp lại của các cơ nâng môi trên gắn vào da có thể kéo và dịch chuyển sản phẩm vào vùng túi mỡ mũi – môi nằm trên nếp gấp mũi miệng, làm tăng thêm thể tích má trên. Do đó, việc sửa rãnh cánh mũi chỉ nên dành cho những trường hợp nghiêm trọng và chỉ được thực hiện ở mức độ cần thiết tối thiểu. Do đó, thường xảy ra trường hợp rãnh cánh mũi không được điều trị, mà tập trung nâng ở 2/3 phía dưới của nếp gấp mũi – miệng.
Điểm vào của ống thông là phía ngoài 1–1,5 cm và phía dưới 1 cm so với góc miệng. Thông thường, nên đặt điểm vào của ống thông dọc theo đường nếp gấp mũi – miệng. Khi muốn điều chỉnh đồng thời má hóp, điểm vào ống thông có thể hơi lệch sang phía ngoài một chút so với điểm này (Hình 4.84). Độ sâu mong muốn của mũi tiêm phụ thuộc vào chỉ định liên quan. Khi cần chỉnh sửa rãnh cánh mũi, thực hiện tiêm sâu vào mặt phẳng trên màng xương của hố nanh, còn khi để chỉnh sửa thể tích ở hai phần ba dưới của nếp gấp mũi – miệng, thì tiêm vào lớp mỡ dưới da nông nằm trên bề mặt của cơ vòng miệng (Hình 4,85). Bằng cách sử dụng kỹ thuật phân lớp kép, có thể làm đầy bổ sung ở lớp dưới da. Khi cần thiết, chất làm đầy HA có thể được tiêm trong da để giải quyết bất kỳ nếp nhăn mảnh nào trên bề mặt. Sử dụng kỹ thuật phân luồng tuyến tính ngược, đặt chất làm đầy HA để lấp đầy rãnh tĩnh sâu khi cần thiết. Sau đó, một mũi tiêm HA song song được đưa vào trong đến nếp gấp mũi – miệng để có được đường viền mịn đều. Phạm vi thể tích là 1–2 mL mỗi bên, tùy thuộc vào độ sâu của nếp gấp. Để gây tê, chỉ nên thoa kem gây tê tại chỗ. Nên sử dụng bàn tay không thuận để kéo căng da vừa xuống dưới và vừa ra phía ngoài trong khi tiêm để tạo điều kiện cho ống tiến vào.
Nếp gấp mũi – miệng động
Để cải thiện sự nổi bật của nếp gấp mũi miệng động khi cười (Hình 4.82), chất làm đầy HA được đặt vuông góc với kỹ thuật tiêm hình dương xỉ bằng cách lắng đọng nhiều lượng chất làm đầy HA vuông góc với hướng của nếp gấp mũi – miệng trong mặt phẳng hạ bì (Hình 3.11a ). Chất làm đầy HA một pha với độ nhớt – đàn hồi trung bình thường được lựa chọn để điều trị nếp gấp mũi – miệng động. Tiêm bằng kim 30-G và 0,25–0,5 mL chất làm đầy HA được phân phối mỗi bên trong mặt phẳng hạ bì. Nên thoa kem tê tại chỗ hơn 30 phút để giảm thiểu đau đớn.
Bảng 4.13 Tóm tắt kỹ thuật điều trị nếp gấp mũi – miệng
Mục | Nội dung |
Kim và ống thông | Ống thông 23-G 5-cm. |
Chất làm đầy HA | Chất làm đầy HA hai pha với kích thước hạt lớn hoặc chất làm đầy HA đơn pha với độ nhớt – đàn hồi cao. |
Lượng chất làm đầy HA | 0.5-2 mL mỗi bên. |
Độ sâu tiêm | Lớp dưới da sâu bên trên lớp cơ.
Lớp dưới da nông nếu cần thiết. |
Điểm vào ống thông | Bên cạnh phía ngoài 1-1,5 cm và thấp hơn 1 cm so với khóe miệng. |
Khu vực mục tiêu | 2/3 của phía dưới nếp gấp mũi – miệng. |
Gây mê | Thuốc gây tê tại chỗ. |
Tay không thuận | Giữ da xuống dưới để duy trì độ căng của da |
Hình 4.84 Điểm vào ống thông và vị trí thích hợp để phục hồi thể tích của nếp mũi miệng. (a) Việc chỉnh sửa rãnh cánh mũi chỉ nên dành cho các trường hợp nghiêm trọng và (b) chỉ thực hiện chỉnh sửa cho 2/3 dưới của nếp mũi má miệng (c) Hình ảnh siêu âm hiển thị chất làm đầy HA được đặt trong lớp dưới da ở nếp gấp mũi miệng.
Điều trị kết hợp
Nên chỉnh sửa đồng thời các nếp gấp miệng – cằm hoặc rãnh môi – hàm nếu có thể, vì sự hiện diện của các nếp này góp phần làm cho nếp gấp mũi – miệng trông dài ra. Trong khi đó, những chỗ lõm ở má nên được giải quyết đồng thời để có sự chuyển tiếp mềm mại hơn đến các nếp gấp mũi – miệng. Ở những bệnh nhân có túi mỡ mũi-môi nổi rõ, nên thực hiện 2-3 đợt tiêm giảm mỡ corticosteroid để có được vẻ ngoài săn chắc và tự nhiên hơn.
Các biến chứng
Bầm tím: Cần chú ý tránh vùng động mạch mặt chạy dọc theo nếp gấp mũi – miệng, tổn thương có thể gây ra bầm tím nghiêm trọng như tụ máu khi dùng kim để chỉnh sửa nếp gấp mũi – miệng thay vì dùng ống thông hoặc khi dùng kim chọc thủng điểm vào của ống thông. Vấn đề mạch máu: động mạch mũi ngoài bị nén lại do tiêm quá nhiều chất làm đầy ở hố nanh có thể gây ra suy mạch máu ở vùng mũi ở những bệnh nhân có tuần hoàn mạch máu đã bị tổn thương do phẫu thuật mũi trước đó liên quan đến tổn thương động mạch trụ mũi, v.v. Trong khi đó, tắc mạch bằng chất làm đầy do vô ý tiêm chất làm đầy vào động mạch mặt có thể gây ra các biến chứng mạch máu bao gồm hoại tử mũi, ấn đường và trán do sự liên kết mạch rộng ở sống mũi giữa động mạch mũi ngoài – một nhánh của động mạch mặt và động mạch sống mũi – một nhánh của động mạch trên ròng rọc (xem Phần 5.1).
Hình 4.86 (a) Trước và (b) sau khi nâng má hóp trước để cải thiện nếp gấp mũi miệng ở bệnh nhân 68 tuổi, có da má dưới hàm chảy xệ hoặc túi mỡ má phồng lên trước đó. Cô cũng được tiêm đồng thời thuốc giảm mỡ steriod và tiêm độc tố butulinum để giảm vùng cơ cắn.
Đường viền không đều: Tiêm quá nhiều chất làm đầy vào lớp hạ bì nông có thể dẫn đến sự không đều bề mặt. Trong khi đó, việc chỉ xử lý các nếp gấp mũi – miệng mà không xem xét sự cân đối với các phần còn lại của khuôn mặt cũng có thể dẫn đến đường viền không đều. Ví dụ, chỉ chỉnh sửa nếp gấp mũi – miệng mà không đồng thời điều trị hõm má có thể làm nổi bật hõm má. Tương tự như vậy, ở những bệnh nhân có túi mỡ mũi – môi nổi rõ, việc lấp đầy rãnh cánh mũi có thể góp phần làm cho mỡ mũi – môi xuất hiện rõ rệt hơn.
Da má dưới hàm chảy xệ: Ở những bệnh nhân ở độ tuổi từ 40 trở lên đã có lúm má hoặc túi mỡ má phồng lên từ trước, việc nâng má có thể dẫn đến tình trạng da má dưới hàm chảy xệ trầm trọng hơn (Hình 4,86). Do đó, phải cẩn thận để nâng nếp gấp mũi – miệng chỉ với số lượng tối thiểu đối với bệnh nhân có da má dưới hàm chảy xệ từ trước. Nên cân nhắc đồng thời phương pháp tiêm giảm mỡ, hút mỡ hoặc nâng cơ bằng chỉ cho vùng da má dưới hàm chảy xệ.