Nghệ khô hạn

Danh pháp

Tên khoa học

Curcuma arida

Cây mọc ở một trong những nơi khô hạn nhất của Việt Nam ( Ninh Thuận), do đó có tên gọi cụ thể là “arida”. Curcuma là tên chi Nghệ của cây

Vào năm 2015. cây được mô tả khoa học lần đầu tiên bởi Jana Leong-Škorničková và Lý Ngọc Sâm.

Mẫu định danh loài thu thập ở cao độ 7 m trong Vườn quốc gia Núi Chúa, trong địa phận thôn Thái An, xã Vĩnh Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận.

Cụm hoa Nghệ khô hạn Curcuma arida Škorničk. & N.S.Lý
Cụm hoa Nghệ khô hạn Curcuma arida Škorničk. & N.S.Lý

Tên tiếng việt

Nghệ khô hạn

Phân loại khoa học

Họ: Zingiberaceae (gừng)

Mô tả cây

Cây thảo nhỏ có thân rễ, cao đến 0,5 m. Thân rễ hình trứng, 3–4 cm × ~1 cm, đôi khi có nhánh mỏng hướng xuống dưới, vỏ màu nâu sáng, ruột màu vàng, mùi thơm nồng; củ hình trứng đến hình thoi, 2,4–4,8 cm × 0,9–2,3 cm, vỏ màu nâu, ruột màu ánh trắng, vùi sâu trong đất.

Chồi lá thường với 3–4 lá vào thời điểm ra hoa; thân giả dài đến 15cm, màu xanh lục, gồm các lá bắc bẹ và bẹ lá; lá bắc bẹ 2–3, màu xanh lục, sớm chuyển thành dạng giấy khô xác và mục nát, nhẵn nhụi; bẹ lá xanh lục, nhẵn nhụi; lưỡi bẹ dài tới 5 mm, 2 thùy (các thùy từ nhọn đến nhọn hoắt), như thủy tinh, màu trắng ánh lục, trong mờ, nhẵn nhụi; cuống lá dài 1–9cm (cuống lá thứ nhất ngắn nhất, các lá trong cùng có cuống dài nhất), có rãnh, màu xanh lục, nhẵn nhụi; phiến lá hơi không bằng nhau, hình trứng đến hình elip, tới 35 cm × 13 cm, hơi như da, nhẵn (uốn nếp rất mờ), mặt gần trục màu xanh lục, mặt xa trục màu xanh lục nhạt, gân giữa màu xanh lục, nhẵn nhụi cả hai mặt, đáy thuôn tròn, hơi xiên, đỉnh thu nhỏ dần, có lông măng.

Cụm hoa ở giữa, với cuống bị che khuất trong thân giả; cuống dài tới 20cm, đường kính tới 7mm, màu lục nhạt ở những phần tiếp xúc với ánh sáng; cành hoa dạng bông thóc ~10–20 cm × 4–6 cm, không mào, bao gồm 15–35 lá bắc; lá bắc 3–5 cm × 2,0–4,5 cm, hình trứng từ rộng đến hẹp đến hình bay, rộng hơn ở đáy, hẹp hơn về phía đỉnh, màu ánh trắng đến lục nhạt ở nửa đáy với ánh tía tăng dần về phía đỉnh, nhẵn nhụi cả hai mặt, hợp sinh ở 1/3–1/4 phía dưới, đỉnh nhọn đến nhọn hẹp, uốn ngược; cành hoa bọ cạp xoắn ốc với 4 hoa ở gốc cụm hoa, 1–2 hoa ở đỉnh; lá bắc con nhỏ, hình tam giác hẹp và cong, rộng tới 2 mm ở gốc, dài tới 9mm, màu trắng với ánh tía hồng ở đỉnh, đôi khi tiêu giảm hoàn toàn.

Hoa dài 4–5cm, thò ra từ lá bắc; đài hoa dài 10–13 mm, 3 răng, có vết rạch một bên dài 5–6 mm, nhẵn nhụi, màu trắng bán trong mờ, đỉnh lồi có răng, ánh màu hồng sẫm; ống tràng hoa dài 2,2–3,0 cm, hình trụ hẹp ở gốc đến khoảng 1,5–2,0 cm phía trên bầu nhụy, hình phễu ở đỉnh, màu trắng cả trong và ngoài, bên ngoài nhẵn nhụi ở gốc, có lông măng ở phần hình phễu, bên trong có lông măng, với rãnh đặt lỏng lẻo mặt lưng giữ vòi nhụy; thùy tràng lưng 15mm × 11–13mm, hình tam giác-hình trứng, lõm, màu trắng hoặc có chút ánh tía ở đỉnh, nhẵn nhụi, đỉnh có mấu nhọn ~1mm; các thùy tràng bên 12 mm × 7–9 mm ở gốc, hình tam giác với đỉnh tù hơi lõm, màu trắng kem tại gốc hoặc có chút ánh tía ở đỉnh, nhẵn nhụi; cánh môi ~15–17mm × 14mm, hơi hình trứng ngược, với vết rạch dài tới 7 mm, màu trắng kem ở gốc, chuyển thành màu vàng ở đỉnh với dải màu vàng sáng chạy tới phần đỉnh của trung tâm; nhị lép bên 14–16 mm × 11mm, hình trứng không đều đến hình thoi, màu trắng, màu trắng ở gốc, màu vàng về phía đỉnh, nhẵn nhụi cả hai mặt.

Nhị dài 9–10 mm; chỉ nhị dài 3–5 mm, rộng 5–6 mm ở gốc, rộng 1,5 mm ở điểm nối với mô liên kết, màu trắng, có lông măng (lông tuyến); bao phấn có cựa, mô liên kết thưa lông măng, cựa bao phấn dài ~0,5 mm, dạng sợi, hình móc, màu trắng, có mào bao phấn, dài 1,0-1,5 mm, đỉnh tù, màu vàng; mô vỏ bao phấn dài 5 mm, nứt dọc theo toàn bộ chiều dài, phấn hoa màu trắng.

Tuyến trên bầu 2, màu kem, dài 3 mm, đường kính ~0,8 mm, đỉnh tù.

Vòi nhụy màu trắng, nhẵn nhụi; đầu nhụy hình đầu, rộng ~1 mm, màu trắng kem, miệng nhỏ có lông rung, hướng về phía trước. Bầu nhụy 2–3 × 2 mm, ba ngăn, màu trắng kem, nhẵn nhụi. Quả nang ba ngăn hình cầu, đường kính ~1,1 cm (khi gần chín), màu trắng, nhẵn nhụi; hạt hình trứng ngược không đều, dài ~5 mm, màu trắng kem đến màu nâu nhạt (khi gần chín), bóng, bao bọc trong áo hạt trắng mờ có khía.

Curcuma arida. A. Thói quen và chi tiết của ligule (inset). B. Cụm hoa. C. Cincinnus. D. Quả non. E. Thân rễ (thanh chia độ  tính bằng mm). F. Tách hoa: hoa ở mặt bên, nụ hoa, ống hoa (có đính noãn, đài hoa và nhị hoa), thuỳ tràng hoa, nhị và bao tử, lá  bắc sinh (vạch chia độ tính bằng cm). G. Biểu mô tuyến, bao phấn (hình bên và phía trước; vạch chia độ tính bằng mm)
Curcuma arida. A. Thói quen và chi tiết của ligule (inset). B. Cụm hoa. C. Cincinnus. D. Quả non. E. Thân rễ (thanh chia độ
tính bằng mm). F. Tách hoa: hoa ở mặt bên, nụ hoa, ống hoa (có đính noãn, đài hoa và nhị hoa), thuỳ tràng hoa, nhị và bao tử, lá
bắc sinh (vạch chia độ tính bằng cm). G. Biểu mô tuyến, bao phấn (hình bên và phía trước; vạch chia độ tính bằng mm)

Nhìn chung Curcuma arida có hình dạng chùm hoa và màu sắc của các lá bắc hơi giống với C. pambrosima, nhưng hình dạng của bao phấn cũng gợi ý mối quan hệ với Curcuma vitellina.

Nhìn chung Curcuma arida có hình dạng chùm hoa và màu sắc của các lá bắc hơi giống với C. pambrosima và có khả năng thụ phấn cho loài tương tự, nhưng hình dáng chung của hai loài là khác nhau ở lá. (phiến mỏng và nổi rõ ở C. vitellina so với phiến nhẵn hơi hình nón ở C. arida) cũng như hình dạng và màu sắc của cụm hoa tổng thể (cụm hoa bao gồm 15–60 lá bắc màu trắng kem hoặc xanh lục với các đỉnh tù, phản xạ nhẹ ở C. vitellina so với cụm hoa bao gồm 15–35 lá bắc có màu xanh lục đến trắng ở gốc, dần dần nhuốm màu hồng theo hướng từ cấp tính đến hẹp cấp tính và có phản xạ mạnh

Sinh thái

Cây ra hoa từ tháng 9 đến tháng 11.

Cây ra quả từ tháng 10 đến tháng 12.

Sinh thái của cây khác với các cây cùng loài tại Việt Nam ra hoa vào tháng 4 đến tháng 7

Phân bố

Cho đến nay, Nghệ khô hạn chỉ mới ghi nhận phân bố tại Vườn Quốc Gia Núi Chúa, Ninh Thuận.

Cây mọc ở các khe đá của các trảng trống hay bên dưới thảm thực vật cây bụi của rừng bán khô hạn Núi Chúa ở cao độ khoảng từ 35 – 120 m so với mực nước biển. Nơi có nhiều loài cây bụi, cây gai mọc chung, nhất là cây thân mọng nước họ Thầu dầu (Euphorbiaceae).

Curcuma arida trong môi trường sống khô hạn điển hình tại địa phương kiểu nơi nó phát triển trên các sườn núi đá dưới thảm thực vật cây  bụi
Curcuma arida trong môi trường sống khô hạn điển hình tại địa phương kiểu nơi nó phát triển trên các sườn núi đá dưới thảm thực vật cây
bụi

Bộ phận dùng

Chưa rõ

Thu hái, chế biến

Chưa rõ

Thành phần hóa học

Chưa được nghiên cứu

Tác dụng dược lý

Chưa được nghiên cứu.

Tính vị, tác dụng

Chưa được nghiên cứu

Công dụng và liều dùngh

Chưa được nghiên cứu

Một số bài thuốc

Chưa được nghiên cứu

Những lưu ý khi sử dụng vị thuốc

Chưa được nghiên cứu

Tài liệu tham khảo

  1. 1. LEONG-ŠKORNIČKOVÁ, J. A. N. A., Lý, N. S., & Nguyễn, Q. B. (2015). Curcuma arida and C. sahuynhensis, two new species from subgenus Ecomata (Zingiberaceae) from Vietnam. Phytotaxa, 192(3), 181-189
  2. 2. Curcuma arida trong Plants of the World Online. Truy cập ngày 04 tháng 5 năm 2022.
  3. 3 Leong-Škorničková J. & Tran H. D. (2019). Curcuma arida. The IUCN Red List of Threatened Species. 2019: e.T131774874A131774879. doi:10.2305/IUCN.UK.2019-3.RLTS.T131774874A131774879.en. TTruy cập ngày 04 tháng 5 năm 2022.

Không tìm thấy sản phẩm nào khớp với lựa chọn của bạn.